Đoàn luật sư Khánh Hòa
  • Facebook
  • Intagram
  • Youtube
  • Twitter
  • Hotline

Nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư, góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân

Nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư, góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân

Bài viết của Luật sư, Tiến sĩ PHAN TRUNG HOÀI 

Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

          Một trong những nội dung mà Đề án của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân đặt ra là “đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”, hướng tới giai đoạn từ sau năm 2022 “xây dựng Tòa án nhân dân chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, minh bạch, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Với định hướng chính trị, pháp lý nêu trên, có thể khẳng định, Đề án của Ban cán sự Đảng TAND tối cao có ý nghĩa hết sức quan trọng và mang tính cấp thiết, có tác động lớn đến hoạt động tham gia tố tụng của đội ngũ Luật sư với tư cách là một chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) là chức năng bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong tình hình mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống Toà án, nhằm tiếp tục thực hiện các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và các Nghị quyết khác của Đảng. Nhiệm vụ này cũng được nêu trong Đề án của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân (TAND) tối cao về đổi mới tổ chức bộ máy TAND tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 Khoá XII của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới (gọi tắt là “Đề án”). Đề án được xây dựng với mục tiêu nhằm cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng là: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân vào quá trình tố tụng tư pháp”.

Đề án này đặt ra trong bối cảnh quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật đã giao thêm cho TAND nhiều nhiệm vụ, thẩm quyền mới để phù hợp với vị trí, vai trò là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp của đất nước. Xu thế mở rộng và gia tăng thẩm quyền xét xử, giải quyết cho Tòa án đã dẫn tới số lượng vụ việc tăng trung bình 8%/năm với quy mô, tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp. Yêu cầu, đòi hỏi của Nhân dân đối với hoạt động của Tòa án ngày càng cao; nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 đặt ra cho hệ thống Tòa án yêu cầu phải không ngừng cố gắng, nỗ lực phấn đấu để nâng cao uy tín trước Nhân dân, thật sự là niềm tin, chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.

Một trong những nội dung mà Đề án đặt ra là “đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”, hướng tới giai đoạn từ sau năm 2022 “xây dựng Tòa án nhân dân chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, minh bạch, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Với định hướng chính trị, pháp lý nêu trên, có thể khẳng định, Đề án của Ban cán sự Đảng TAND tối cao có ý nghĩa hết sức quan trọng và mang tính cấp thiết, có tác động lớn đến hoạt động tham gia tố tụng của đội ngũ Luật sư với tư cách là một chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) là chức năng bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

  1. Một số ý kiến về thực hiện quyền tư pháp của Toà án và địa vị pháp lý của Luật sư trong hoạt động xét xử

1.1. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, lập pháp, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã xác định chủ thể thực hiện quyền tư pháp là Tòa án, “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [1] của hoạt động tư pháp. Tố tụng tư pháp về bản chất là hoạt động tư pháp được pháp luật quy định theo trình tự và quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, vừa đảm bảo tính độc lập trong thực hiện chức năng xét xử, vừa đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ và cơ chế kiểm soát hoạt động.

Thể chế hóa quan điểm của Đảng về tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, quy định chặt chẽ hơn thủ tục tranh luận, phán quyết của Tòa án phải xuất phát từ kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đây là bước chuyển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi xác lập vị thế của Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nội dung Đề án đặt ra yêu cầu: “Đổi mới tổ chức phải đảm bảo cho Tòa án nhân dân hoạt động độc lập, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; kế thừa những thành tựu đã đạt được, khắc phục được những hạn chế trong thực tiễn; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với điều kiện Việt Nam để xây dựng nền tư pháp tương đồng với trình độ chung của thế giới”; chúng tôi cho rằng, quan điểm này là hoàn toàn đúng đắn, việc thực hiện yêu cầu này là hết sức cần thiết, đảm bảo cho Tòa án thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Tuy nhiên, để làm rõ quan điểm chỉ đạo về đổi mới tổ chức của Tòa án nêu trong Đề án, cần tính đến đặc điểm mô hình TTHS ở nước ta hiện nay là mô hình thẩm vấn, trên cơ sở tiếp thu một số hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội cụ thể của Việt Nam. Do mô hình TTHS Việt Nam coi vụ án hình sự không phải là tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên, mà xâm hại tới trật tự công cộng, lợi ích chung của xã hội nên Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết với mục tiêu xuyên suốt là tìm ra sự thật, tìm đến chân lý khách quan của sự việc, chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng như thẩm quyền của các chủ thể trong TTHS. Xét về bản chất, trong TTHS luôn tồn tại 3 chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử; trong đó, vai trò của các chủ thể được phân định theo các chức năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với các chức năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS và hoạt động tư pháp.

Trong mô hình TTHS hiện nay, tại phiên tòa, phương pháp điều tra, thẩm vấn vẫn là phương pháp chủ yếu được áp dụng, mà chưa phải là sự đối tụng, cạnh tranh thật sự giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Với cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp hình sự ở nước ta hiện nay giống như một “đường trục”, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ riêng trong từng giai đoạn tố tụng, nhưng đều có chung nhiệm vụ phát hiện, chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ sự thật của vụ án[2]. Việc tổ chức các hoạt động TTHS nói chung và tổ chức bộ máy Tòa án nói riêng ở nước ta cho thấy, đang có sự mâu thuẫn, chồng lấn ở một mức độ nhất định giữa các chức năng cơ bản của TTHS, cùng một chủ thể pháp luật, nhưng lại được giao thực hiện đồng thời nhiều chức năng tố tụng khác nhau. Xu hướng phát triển của nền tố tụng dân chủ đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án phải là hiện thân của công lý, phải khách quan trong việc đưa ra các phán quyết.

Về nguyên lý, bên nào thực hiện việc buộc tội, bên đó phải có trách nhiệm chứng minh, lập luận cho các cơ sở, lý lẽ của việc buộc tội, Tòa án được xác định có vị trí trung tâm trong cải cách tư pháp hình sự. Tuy nhiên, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án quy định tại Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015 dẫn đến thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta có tình trạng cả Tòa án và Viện kiểm sát đều cùng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm. Tòa án có trách nhiệm làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Xét ở góc độ chức năng tố tụng, trong một chừng mực nhất định, Tòa án hiện nay đang làm thay một phần trách nhiệm của Viện kiểm sát (cơ quan buộc tội) và Luật sư (bên gỡ tội). Điều này một mặt làm ảnh hưởng đến tính khách quan của Tòa án trong việc thực hiện chức năng xét xử, mặt khác làm giảm sút vai trò, trách nhiệm chủ động của Viện kiểm sát (cơ quan buộc tội) trong việc thực hiện chức năng tố tụng của mình.

1.2. Nhìn từ góc độ lý luận, trong TTHS, chức năng gỡ tội tồn tại song song với chức năng buộc tội như là nhu cầu tất yếu khách quan. Khi chưa xác định ai là người thực hiện tội phạm hoặc bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì TTHS chưa xuất hiện chức năng bào chữa. Khi có người bị tố giác tội phạm, bị kiến nghị khởi tố, bị bắt và áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giữ hoặc có người mặc dù không bị bắt và không áp dụng biện pháp ngăn chặn nêu trên nhưng bị nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội thì trong TTHS đã bắt đầu xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Buộc tội trong TTHS được quan niệm là hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ sở các chứng cứ về vụ án hình sự đã được xác định. Chính từ thời điểm này trong TTHS bắt đầu xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, đồng thời quá trình tranh tụng được tiếp tục cho đến khi TTHS kết thúc[3]…

Quyền tự bào chữa và nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa phải được coi là điều kiện tất yếu cho việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng một cách công bằng, tạo cơ hội cho người bị buộc tội khả năng tiếp cận với công lý và TTHS Việt Nam có được bản chất dân chủ của nó. Vì thế, cần tạo môi trường pháp lý cho việc thực hiện chức năng gỡ tội, thể hiện thông qua việc Nhà nước có biện pháp đảm bảo cho Luật sư được thực hiện các kỹ năng chuyên môn của họ mà không bị đe dọa, cản trở hoặc can thiệp không đúng đắn, cũng như người dân có thể tiếp cận một cách bình đẳng và hiệu quả đối với các dịch vụ pháp lý mà người bào chữa cung cấp. Từ cách tiếp cận này, mới có cơ hội tạo ra sự bình đẳng giữa kiểm sát và Luật sư để phát huy vai trò tranh tụng, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử trong tình hình mới.

Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã xác định vị trí bình đẳng của người bào chữa tại phòng xử án (vị trí ngồi của Kiểm sát viên và Luật sư ngang bằng nhau), xác định phạm vi xét hỏi và cơ chế đảm bảo tranh tụng dân chủ tại phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư, bị hại và những người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và các ý kiến lặp lại. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và phải được thể hiện trong bản án. Những điểm đổi mới nêu trên là cơ sở thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 được bảo đảm: “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.

  1. Một số vướng mắc trong pháp luật thực định và thực tiễn hoạt động làm ảnh hưởng việc tham gia của Luật sư trong hoạt động xét xử của Tòa án

2.1. Theo Báo cáo số 09/BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam về tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển nghề Luật sư, số vụ, việc Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi ngày càng tăng[4], chất lượng bào chữa của các Luật sư trong các vụ án nêu trên cũng ngày càng được nâng cao, số lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư nhìn chung, năm sau tăng hơn năm trước[5]. Về phần mình, Tòa án các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp Thông báo đăng ký bào chữa, nghiên cứu, sao chụp hồ sơ vụ án và tham gia tranh tụng tại phiên tòa.

Bên cạnh những mặt thuận lợi và kết quả hoạt động nêu trên, thực trạng thi hành các quy định về bảo đảm quyền bào chữa còn một số bất cập, vướng mắc và khó khăn. Thực trạng này hạn chế không chỉ đến việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền hành nghề của Luật sư, mà còn ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, khả năng tiếp cận công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Đó không chỉ là sự khiếm khuyết trong thực trạng pháp luật mà còn làm cho tiến trình Luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự bị thu hẹp lại, việc sử dụng và bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đương sự bị hạn chế, nguy cơ rủi ro trong hành nghề tăng thêm.

Những khó khăn, trở ngại trong quá trình tham gia TTHS của Luật sư thời gian qua tập trung thể hiện trước hết trong pháp luật thực định và một số biểu hiện cản trở, gây khó khăn cho Luật sư khi tham gia tố tụng. Địa vị pháp lý của Luật sư chưa được nâng lên tương xứng với chức năng cơ bản của TTHS, còn mang nặng tính hình thức, quyền tiếp cận của người bị tình nghi phạm tội với dịch vụ pháp lý chưa được đảm bảo. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, các tồn tại, vướng mắc trong pháp luật thực định và trong thực tiễn tham gia tố tụng của Luật sư thể hiện:

– Trước hết, do địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS là người tham gia tố tụng, ở vị thế yếu hơn so với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, không chỉ ảnh hưởng đến việc đảm bảo sự bình đẳng trong thực hiện chức năng cơ bản của TTHS, mà vẫn tồn tại cơ chế trao cho cơ quan tố tụng được quyền chấp thuận hay không đối với tư cách Luật sư thông qua thủ tục hành chính đăng ký bào chữa. Có thể nói, hầu như ở các nước không tồn tại thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa hay Thông báo đăng ký bào chữa như ở nước ta.

– Bộ luật TTHS 2015 quy định chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, do nội hàm của khái niệm “không liên quan vụ án” trên thực tế cũng được diễn giải khác nhau, nên chủ tọa có thể dùng quyền của mình để cắt ý kiến của Luật sư. Nếu Kiểm sát viên không đáp lại thì cũng không có cơ chế nào buộc họ phải tranh luận đến cùng. Chất lượng và kết quả tranh tụng trong một chừng mực bị hạn chế, trong một số vụ án, phán quyết của Tòa án chưa xuất phát từ kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

– Ngoài ra, pháp luật hiện hành chưa ghi nhận việc đáp ứng nhu cầu của người bị kết án tử hình, người đang chấp hành án cần được tư vấn pháp luật bởi Luật sư. Nhu cầu này đặc biệt quan trọng trong các vụ án phức tạp, thiếu chứng cứ trực tiếp và vững chắc, hoặc khi có tình tiết mới có thể dẫn đến tái thẩm. Trong quá trình chấp hành án, khi phát sinh nhu cầu tư vấn tạm hoãn chấp hành hình phạt, xem xét trách nhiệm về kinh tế, dân sự của phạm nhân thì việc tiếp xúc với Luật sư để được tư vấn cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu quy định.

2.2. Bên cạnh khuôn khổ pháp luật thực định còn chưa đầy đủ, nhận thức của những người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của Luật sư cũng là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa. Những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật và đảm bảo quyền hành nghề của Luật sư có phần xuất phát từ nhận thức chưa đúng về quá trình dân chủ hóa hoạt động tư pháp nói chung và TTHS nói riêng, dẫn đến khả năng rủi ro trong quá trình hành nghề. Điều đó phần nào ảnh hưởng đến yêu cầu xây dựng một nền tư pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh, bảo vệ công lý như tinh thần các Nghị quyết của Đảng, không tạo ra được cơ chế pháp lý hữu hiệu nâng cao hiệu quả hoạt động và phản biện tích cực của đội ngũ Luật sư.

Đánh giá về một số vướng mắc, khó khăn, bất cập trong quan hệ phối hợp giữa Luật sư và các cơ quan tư pháp nói chung, hệ thống Tòa án nói riêng có nguyên nhân về mặt chủ quan và khách quan như sau:

– Nguyên nhân chủ quan:

Trong đội ngũ của mình, vẫn còn một số Luật sư chưa nỗ lực rèn luyện, phấn đấu để xây dựng uy tín thương hiệu và niềm tin với khách hàng về khả năng cung cấp các dịch vụ pháp lý có chất lượng, hiệu quả tranh tụng còn hạn chế. Vẫn còn tồn tại một số Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ Luật sư và niềm tin của khách hàng vào chất lượng cung cấp dịch vụ; có một số Luật sư chưa làm đúng và làm tròn bổn phận khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và trách nhiệm phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng.

– Nguyên nhân khách quan: Như trên đã nêu, môi trường hành nghề và cơ chế tố tụng tuy đã được cải thiện nhiều so với trước đây nhưng trên một số mặt vẫn chưa thuận lợi cho Luật sư phát huy vai trò trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Hoạt động hành nghề của Luật sư còn gặp khó khăn do pháp luật thực định còn chưa đầy đủ, địa vị pháp lý của Luật sư yếu thế so với các cơ quan tiến hành tố tụng; một số phạm vi hành nghề chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc hướng dẫn chưa đầy đủ, mang tính khả thi đối với các quy định của Bộ luật TTHS, TTDS và các văn bản pháp luật mới được ban hành. Cá biệt, một số hành vi xâm phạm quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, gây ra những hệ quả tiêu cực trong trách nhiệm phối hợp để cùng nhau bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế.

  1. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án

3.1. Định hướng hoàn thiện địa vị pháp lý và cơ chế tham gia tố tụng của Luật sư trong hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống Tòa án

Vấn đề tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, nâng cao vị thế, vai trò của Luật sư trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đã được đặt ra trong Nghị quyết 08, Nghị quyết 49, Kết luận 84 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII như đã nêu ở phần trên. Việc xây dựng cơ chế đảm bảo cho Luật sư nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hoạt động xét xử của Tòa án nhằm góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Định hướng nâng cao chất lượng tham gia tố tụng của Luật sư trong hoạt động xét xử của Tòa án cần dựa trên các quan điểm như sau:

Một là, phải bảo đảm quán triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các quan điểm, chủ trương về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhất là quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong Nghị quyết 08, Nghị quyết 49, Kết luận số 84 của Bộ Chính trị, các văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng liên quan đến việc hoàn thiện mô hình TTHS nói chung và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.

Nội dung Đề án nhấn mạnh rõ: “Cải cách tư pháp nói chung, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nói riêng đang là xu thế toàn cầu, có tính liên tục và phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển, nhất là trong điều kiện nền tư pháp nước ta đang có những điểm bất cập so với mặt bằng chung của thế giới cả về thể chế, tổ chức bộ máy, năng lực trình độ của cán bộ và điều kiện bảo đảm hoạt động cho Tòa án”. Từ định hướng quan trọng này, trọng tâm của cải cách tư pháp liên quan đến hoạt động của các cơ quan tư pháp và cơ chế tham gia của Luật sư trong hoạt động xét xử là hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo các chủ thể tư pháp thực hiện một cách độc lập chức năng tố tụng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp. Cần đảm bảo cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp, tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính minh bạch, công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Hai là, nội dung Đề án xác định “nhiệm vụ xây dựng Tòa án chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý đáp ứng yêu cầu Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 được xác định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Để đạt được mục tiêu quan trọng này, cần nghiên cứu, một số nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án có thể ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử, ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động xét xử như: Trách nhiệm chứng minh tội phạm; thẩm quyền khởi tố vụ án; thẩm quyền tiếp tục xét xử vụ án khi VKS đã rút quyết định truy tố…

Cần xây dựng hình ảnh Tòa án với vai trò là trọng tài khách quan, là hiện thân và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp, nơi người dân đặt niềm tin vào công lý, đảm bảo thực hiện khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Xây dựng các cơ chế vận hành trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện Điều 13 Bộ luật TTHS 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có tội”.

Ba là, cần tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng và quan điểm về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, mở rộng nguyên tắc tranh tụng ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố và đặc biệt trong giai đoạn xét xử của Tòa án. Bởi lẽ, tăng cường tranh tụng trong hoạt động TTHS là chủ trương mang tính đột phá, xuyên suốt nội dung đổi mới và hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, được xác định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của cải cách tư pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, trong đó nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.

Bốn là, phải bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế giám sát, kiểm soát hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Luật sư trong TTHS, quy định các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa được quy định trong Hiến pháp 2013 và bảo đảm quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư.

3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Luật sư trong hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức của Tòa án nhân dân

Nhằm thực hiện các nhiệm vụ được nêu trong Đề án, nhìn từ góc độ là chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của TTHS, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị để các cơ quan có thẩm quyền xem xét như sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật nhằm tăng cường vị thế, trách nhiệm, tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả thật sự của Luật sư khi tham gia hoạt động xét xử của Tòa án như sửa đổi các quy định về diện chủ thể, lựa chọn người bào chữa theo hướng đảm bảo tính chuyên nghiệp; thời điểm tham gia tố tụng, cải cách thủ tục tố tụng tư pháp; mở rộng phạm vi hoạt động của Luật sư vào các hoạt động tố tụng khác…[6].

Thứ hai, về công tác phối hợp, trên cơ sở đánh giá tổng kết thực tiễn tham gia của Luật sư trong hoạt động xét xử, đề nghị Đảng Đoàn Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Ban Cán sự Đảng TAND tối cao nghiên cứu, có ý kiến chỉ đạo xây dựng Quy chế phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư Việt Nam với TAND tối cao liên quan việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia tố tụng, hình thành cơ chế phối hợp và kiểm soát giữa Luật sư và Toà án các cấp trong hoạt động xét xử.

Thứ ba, về lâu dài, cần nghiên cứu một cách thấu đáo quy định Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự nếu qua hoạt động xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra để bảo đảm tính vô tư, khách quan của Hội đồng xét xử; quy định về quyền hạn của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, nhằm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội.

Đồng thời, để nâng cao chất lượng và hiệu quả tham gia tố tụng của Luật sư trong hoạt động xét xử, cần nghiên cứu không đặt Luật sư vào diện người tham gia tố tụng, xác định Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, có vị thế bình đẳng trong thực hiện chức năng cơ bản của TTHS, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

___________________________________________________

[1]  Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

[2]  Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đề án mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Báo cáo Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương năm 2012.

[3]  Phạm Hồng Hải: Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân dân, Hà Nội, 1999, tr.26-38.

[4]  Đội ngũ Luật sư đã tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho 146.268 vụ án hình sự (trong đó có 74.240 vụ án hình sự chỉ định và 72.028 vụ án hình sự được khách hàng mời); 121.744 vụ việc dân sự, 54.170 vụ việc trong lĩnh vực kinh tế kinh doanh thương mại, 9.149 vụ án hành chính, 2.576 vụ án lao động; tham gia tư vấn pháp luật: 705.876 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng: 25.932 vụ việc, các dịch vụ pháp lý khác: 112.130 vụ việc và tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí: 181.946 vụ việc.

[5]  Trong những năm qua, đội ngũ Luật sư về cơ bản đã đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có Toà án yêu cầu. Trong đó, một số Đoàn ít Luật sư như Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum, Lai Châu, Hà Giang, mặc dù chỉ có từ 09 đến 12 Luật sư hoặc những địa bàn khó khăn như Tây Bắc Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nhưng các Luật sư đã thực hiện tốt công tác này.

[6]  Theo đó, (1) cần nghiên cứu thêm diện người bào chữa là “người đại diện của người bị buộc tội” và “bào chữa viên nhân dân” trong bối cảnh hiện nay; (2) cần nghiên cứu sửa đổi, đi đến bãi bỏ chế độ và thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định tại Điều 78 Bộ luật TTHS năm 2015; (3) trong quá trình hướng dẫn thi hành Bộ luật TTHS 2015, rất cần bổ sung quy định về sự tham gia của người tập sự hành nghề Luật sư theo Điều 14 Luật Luật sư, tạo cơ hội cho người tập sự hành nghề Luật sư có điều kiện cọ xát với thực tiễn, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm và kỹ năng khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự ở Tòa án cấp huyện; (4) sửa đổi, bổ sung quy định về sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng việc tham gia của Luật sư trong phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là bắt buộc; (5) cần minh định thủ tục để Luật sư có thể tham gia vào trình tự xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, tham gia vào giai đoạn thi hành án; (vi) đề nghị sửa Điều 307 Bộ luật TTHS năm 2015 về trình tự xét hỏi theo thứ tự: Kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến Luật sư, cuối cùng mới đến Hội đồng xét xử hỏi nếu thấy còn những vấn đề cần làm rõ thêm.

Luật sư, Tiến sĩ PHAN TRUNG HOÀI – Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam (Theo Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 15, ra ngày 10/8/2021)